Hỗ trợ đồng bộ để doanh nghiệp sẵn sàng chuyển đổi xanh
Tại hội thảo khởi động Dự án “Trung tâm Chuyển đổi kép - chuyển đổi số và đổi mới sáng tạo nhằm bảo vệ môi trường và khí hậu tại Việt Nam”, ông Bùi Anh Tuấn - Cục trưởng Cục Phát triển doanh nghiệp tư nhân và kinh tế tập thể (Bộ Tài chính) nhấn mạnh, Đảng và Nhà nước đã có nhiều chủ trương, chính sách mạnh mẽ thúc đẩy chuyển đổi xanh và chuyển đổi số như: Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22/12/2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia; Nghị quyết số 198/2025/QH15 ngày 17/5/2025 của Quốc hội về một số cơ chế, chính sách đặc biệt phát triển kinh tế tư nhân...

Tuy nhiên, theo báo cáo tại hội thảo, 64% doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam chưa có bất kỳ sự chuẩn bị nào cho chuyển đổi xanh. Trong khi đó, phần lớn các hoạt động ESG (môi trường - xã hội - quản trị) mới chỉ được triển khai ở nhóm doanh nghiệp FDI hoặc doanh nghiệp lớn, có hoạt động xuất khẩu.
Doanh nghiệp đa phần mong muốn được hỗ trợ kỹ thuật, đào tạo chuyên sâu và hưởng các cơ chế ưu đãi về thuế, tín dụng. Tuy nhiên, nhiều doanh nghiệp gặp khó trong việc tiếp cận nguồn lực, thiếu chuyên gia nội bộ và phải thuê tư vấn ngoài với chi phí cao mà kết quả chưa đạt chuẩn ISO 14064 1:2018 một cách đồng bộ.
Ở góc độ chuyển đổi số, dù 54% doanh nghiệp nhỏ và vừa xác định nâng cao trải nghiệm khách hàng là ưu tiên, nhưng việc triển khai vẫn manh mún, thiếu chiến lược dài hạn. Hạn chế tài chính tiếp tục là rào cản lớn, khi 55% doanh nghiệp cho rằng chi phí công nghệ và vận hành hệ thống là thách thức hàng đầu.
Theo ông Nguyễn Đức Hưng - Giám đốc Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Thực phẩm toàn cầu: “Chuyển đổi xanh vừa là cơ hội, vừa là sức ép đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa - vốn chiếm hơn 90% doanh nghiệp Việt. Việc thay đổi công nghệ đòi hỏi chi phí đầu tư lớn, khiến nhiều doanh nghiệp khó có thể tiếp cận thị trường xanh”.
Theo Ngân hàng Thế giới (World Bank), giai đoạn 2022-2040, Việt Nam cần khoảng 368 tỷ USD để xây dựng khả năng chống chịu và giảm phát thải nhà kính. Trong đó, khu vực tư nhân cần huy động khoảng 184 tỷ USD, tương đương 3,4% GDP mỗi năm một con số rất lớn so với khả năng tài chính hiện nay của các doanh nghiệp trong nước.
Tuy nhiên, tín dụng xanh tại Việt Nam còn hạn chế. Tính đến 30/9/2024, chỉ có 50 tổ chức tín dụng phát sinh dư nợ tín dụng xanh với tổng dư nợ hơn 665 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 4,5% tổng dư nợ toàn nền kinh tế, chủ yếu trong các lĩnh vực năng lượng tái tạo và nông nghiệp xanh. Như vậy, tỷ trọng tín dụng xanh còn rất thấp, trong khi nhu cầu lại ngày càng tăng.
Theo TS Lê Xuân Nghĩa - Chuyên gia kinh tế, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia, để tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp, cần thiết lập một Quỹ tài chính xanh và chính sách tài chính xanh thực chất. “Tín dụng xanh không thể chỉ là việc thống kê khoản vay trong lĩnh vực môi trường. Phải có cơ chế ưu đãi thực sự: cho vay dài hạn, không cần tài sản thế chấp, hoặc lãi suất thấp cho đúng đối tượng là các doanh nghiệp đang trong quá trình chuyển đổi xanh”, ông Nghĩa nhấn mạnh.
Đồng quan điểm, PGS.TS Đỗ Phú Hải - Giảng viên Cao cấp Đại học Quốc gia Hà Nội đề xuất: “Chính phủ cần hỗ trợ cấp độ tổng thể bằng cách thành lập quỹ riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, thúc đẩy các hệ sinh thái doanh nghiệp liên kết ESG. Đồng thời, cần phát triển các công cụ tài chính như trái phiếu xanh và tăng khả năng tiếp cận nguồn vốn FDI phục vụ phát triển bền vững”.
GS.TS Andreas Freytag từ Đại học Friedrich Schiller Jena, Đức khuyến nghị Việt Nam cần có chiến lược “xanh hóa” chính sách toàn diện, từ thu hút đầu tư, hỗ trợ công nghệ đến truyền thông và tư vấn doanh nghiệp. “Quan trọng là đừng để các doanh nghiệp một mình mò mẫm tìm hướng đi. Chính phủ cần đồng hành để chuyển đổi xanh không chỉ là định hướng, mà là năng lực hành động thực tế”, ông cho biết.
Doanh nghiệp tiên phong cho thấy tiềm năng dài hạn
Mặc dù còn nhiều rào cản, một số doanh nghiệp tại Việt Nam đã chủ động chuyển đổi sản xuất theo hướng xanh hóa và đạt được kết quả ấn tượng. Điển hình như Masan High-Tech Materials, đơn vị đã ứng dụng mô hình kinh tế tuần hoàn, triển khai nguyên tắc 3R (Giảm thiểu - Tái sử dụng - Tái chế) trong toàn bộ hoạt động sản xuất. Ông Craig Richard Bradshaw - Tổng giám đốc công ty cho biết, chiến lược phát triển bền vững đã giúp doanh nghiệp tạo ra sự khác biệt trên thị trường toàn cầu.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, Hợp tác xã (HTX) Tam Nông Việt Nam lựa chọn phát triển vùng nguyên liệu riêng biệt, kiểm soát đầu vào theo tiêu chuẩn hữu cơ. Bà Nguyễn Thị Vân Anh - Chủ tịch HTX chia sẻ, đơn vị không chỉ đảm bảo sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu mà còn sử dụng bao bì khay nhôm tái chế 100% cho các sản phẩm chế biến sâu. Nhờ đó, sản phẩm của HTX đã chinh phục được thị trường Nhật Bản và nhiều thị trường khó tính khác.
Ở ngành dệt may, quá trình xanh hóa được thúc đẩy mạnh mẽ nhằm đáp ứng yêu cầu khắt khe từ các nhãn hàng toàn cầu. Ông Vũ Đức Giang - Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam nêu rõ, khoảng 50% doanh nghiệp dệt may đã xanh hóa mới có thể nhận đơn hàng. Quá trình này bao gồm việc sử dụng sợi tái chế, đầu tư hệ thống năng lượng mặt trời, loại bỏ nồi hơi đốt than/dầu, cũng như xây dựng chuỗi liên kết sản xuất bền vững.

Một ví dụ điển hình khác là thương hiệu thời trang REPEET, đơn vị đã tái chế hơn 1,45 triệu chai nhựa PET thành sợi polyester thân thiện với môi trường. Theo ông Văng Viên Thông - Giám đốc điều hành REPEET, thương hiệu không chỉ tiết kiệm 70.000 lít nước và giảm đáng kể lượng khí thải carbon mà còn mở rộng sang thị trường Nhật Bản, Mỹ và châu Âu nơi các tiêu chí bền vững là yếu tố sống còn.
Chuyển đổi xanh không chỉ dừng lại ở thay đổi công nghệ hay quy trình sản xuất. Đó là quá trình toàn diện gắn với văn hóa doanh nghiệp, trách nhiệm xã hội và cam kết với môi trường. Đại diện nhiều doanh nghiệp đồng thuận rằng chuyển đổi xanh giúp nâng cao giá trị thương hiệu, tạo niềm tin và uy tín với đối tác, người tiêu dùng.
Tuy vậy, để hiện thực hóa chuyển đổi xanh ở quy mô toàn nền kinh tế, nhất là trong khu vực doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần sự phối hợp chặt chẽ giữa chính sách nhà nước, sự hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức trung gian, cùng nỗ lực đầu tư và đổi mới của chính doanh nghiệp.
Việc thành lập các trung tâm chuyển đổi kép như dự án đang triển khai được kỳ vọng sẽ tạo nền tảng vững chắc giúp doanh nghiệp Việt Nam không chỉ bắt kịp xu thế mà còn dẫn dắt hành trình phát triển bền vững trong tương lai. Bởi trong kỷ nguyên kinh tế xanh - tuần hoàn c-arbon thấp, chậm đổi mới chính là tụt lại phía sau.
Ngày đăng: 20-06-2025
Tác giả: Duy Trinh