Chuẩn hóa chất lượng để rau quả Việt Nam vượt rào cản kỹ thuật, khẳng định thị phần xuất khẩu
13-05-2025

Thị trường rộng mở nhưng áp lực tiêu chuẩn ngày càng cao

Việt Nam hiện có hơn 1 triệu ha diện tích trồng rau, đạt sản lượng trên 19 triệu tấn/năm, nhờ ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất và điều kiện tự nhiên thuận lợi trải dài từ Bắc vào Nam. Các trung tâm lớn như Lâm Đồng, Đà Lạt đóng vai trò then chốt trong cung ứng rau ôn đới chất lượng cao.

Tính đến tháng 4/2025, rau quả Việt Nam đã hiện diện tại hơn 80 quốc gia và vùng lãnh thổ, đạt giá trị xuất khẩu 1,62 tỷ USD. Các thị trường chủ lực gồm Trung Quốc, Mỹ, Nhật Bản, Hàn Quốc và Liên minh châu Âu (EU). Mặc dù vậy, theo ông Lê Vũ Ngọc Kiên - Viện Chiến lược, Chính sách nông nghiệp và môi trường (Bộ Nông nghiệp và Môi trường), kim ngạch xuất khẩu rau quả của Việt Nam vẫn chỉ chiếm khoảng 1,9% toàn cầu, chủ yếu ở dạng tươi, giá trị gia tăng thấp.

Chuẩn hóa quy trình, đảm bảo chất lượng để rau giữ vững và mở rộng thị phần xuất khẩu. Ảnh minh họa

Bên cạnh đó, tăng trưởng xuất khẩu rau quả ghi nhận nhiều điểm sáng, năm 2024, sầu riêng tăng 43,5%, dừa tăng 60,7%, xoài tăng 48,3%, chuối tăng 20%. Tuy nhiên, cũng có những sản phẩm chủ lực như thanh long sụt giảm tới 15,1%, phản ánh tính dễ tổn thương của ngành trước biến động thị trường và yêu cầu kỹ thuật ngày càng khắt khe.

Ông Ngô Xuân Nam - Phó giám đốc Văn phòng SPS Việt Nam cho biết, chỉ một lô hàng không đạt ngưỡng về dư lượng thuốc bảo vệ thực vật cũng có thể khiến toàn bộ lô bị cảnh báo hoặc tạm dừng nhập khẩu, đặc biệt tại EU, Mỹ hay Nhật Bản. Các nước này yêu cầu sản phẩm đạt chuẩn GlobalGAP, HACCP, đảm bảo an toàn, thân thiện môi trường và tuân thủ tiêu chuẩn lao động.

Chuẩn hóa chuỗi giá trị, mở rộng vùng trồng đạt chuẩn

Theo các chuyên gia, trước hết, cần thúc đẩy liên kết giữa nông dân, hợp tác xã và doanh nghiệp, hình thành các chuỗi giá trị bền vững. Các địa phương trọng điểm như Tiền Giang, Long An, Đắk Lắk, Lâm Đồng cần triển khai chương trình giám sát dư lượng hóa chất nông nghiệp, đảm bảo sản phẩm đầu ra an toàn. Bên cạnh đó, việc đầu tư vào chế biến sâu cũng là hướng đi quan trọng. Nhiều doanh nghiệp đã áp dụng công nghệ bảo quản lạnh, đông lạnh nhanh, sấy khô, chế biến nước ép để kéo dài thời gian bảo quản và nâng cao giá trị gia tăng cho sản phẩm.

Đơn cử như xuất khẩu vải thiều, hiện Bắc Giang có 29.700 ha trồng vải, đã cấp 469 mã số vùng trồng và 55 mã số cơ sở đóng gói đạt chuẩn xuất khẩu sang các thị trường khó tính. Các tỉnh như Hải Dương, Hưng Yên, Quảng Ninh, Lạng Sơn, Sơn La, thậm chí Đắk Lắk (sản lượng 21.000 tấn) cũng đang mở rộng diện tích vải thiều phục vụ xuất khẩu. Đặc biệt, Nhật Bản đã ủy quyền cho Việt Nam tự giám sát quy trình xử lý, giúp tiết kiệm thời gian và chi phí cho doanh nghiệp.

Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Môi trường Đỗ Đức Duy trong chuyến kiểm tra ngày 11/5 tại Bắc Giang đánh giá cao sự chuẩn bị của địa phương, đồng thời yêu cầu mở rộng diện tích GlobalGAP lên 70 - 80%, tiến tới toàn bộ diện tích đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. Ngoài ra, cần đầu tư hệ thống kho lạnh, điểm sơ chế lưu động, hỗ trợ thông quan tại cửa khẩu để giảm thời gian lưu hàng, đặc biệt với thị trường Trung Quốc.

Trong dài hạn, ngành rau quả cần tăng tốc chuyển đổi số từ truy xuất nguồn gốc bằng blockchain đến giám sát IoT trong chuỗi cung ứng. Cũng theo ông Lê Vũ Ngọc Kiên, cần phát triển vùng nguyên liệu bền vững, tăng cường chế biến sâu, đầu tư bao bì, xúc tiến thương mại bài bản, hướng tới các thị trường quy mô lớn như Trung Quốc, Mỹ và nhóm tiềm năng cao. Chỉ khi rau quả Việt Nam chuẩn hóa toàn diện từ “gốc đến ngọn”, ngành mới đủ sức cạnh tranh lâu dài trên thị trường toàn cầu.

loading-gif
mess-icon zalo-icon call-icon group-icon